Mất ngủ, nước tiểu có bọt, cô gái 30 tuổi đi khám phát hiện suy thận dưới 10%: Bác sĩ nói “cần khắc cốt ghi tâm” từng dấu hiệu nhỏ nhất qua 5 giai đoạn
Thấy các triệu chứng buồn nôn, mất ngủ, thay đổi vị giác, chị H. đến Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu – Bệnh viện Bạch Mai để khám thì được chẩn đoán suy thận giai đoạn cuối cần phải điều trị thay thế.
Gia tăng người trẻ bị suy thận mạn tính
Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Bệnh viện Bạch Mai có khoảng 160-180 bệnh nhân thận đang điều trị nội trú. Trung bình mỗi ngày, nơi đây tiếp nhận 30-40 bệnh nhân mới. Đáng chú ý, trong số những bệnh nhân nhập viện ngày càng có nhiều người dưới 30 tuổi, độ tuổi đang là lao động chính trong gia đình.
“Có rất nhiều người trẻ đang điều trị nội trú tại Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, hầu hết những người này phải nhập viện là do viêm cầu thận mạn. Có những thanh niên còn rất trẻ đã bị bệnh thận ở giai đoạn cuối”, TS.BS Nghiêm Trung Dũng - Giám đốc Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Bệnh viện Bạch mai cho biết.
Bệnh nhân M, 30 tuổi ở Bắc Giang tâm sự 5 năm trước khi đang đi làm có biểu hiện đau bụng, buồn nôn. Khám tại bệnh viện huyện, M được chẩn đoán bị suy thận giai đoạn cuối. “Khi nhận chẩn đoán, tôi rất bất ngờ vì trước đó không có biểu hiện gì, vẫn sinh hoạt và đi làm bình thường. Giờ cuộc sống đảo lộn, muốn làm nhưng sức khoẻ không cho phép, thậm chí sinh hoạt bình thường thôi cũng không được… ”, M chia sẻ.

TS.BS Nghiêm Trung Dũng - Giám đốc Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu kiểm tra sức khoẻ cho bệnh nhân đang điều trị tại Trung tâm
Cũng giống M, bệnh nhân H. 30 tuổi ở Hà Nội, sau lần đi khám sức khoẻ định kỳ năm 2020 và được bác sĩ cảnh báo tình trạng trong nước tiểu có protein niệu. H được hướng dẫn theo dõi và điều trị bằng thuốc. H có đến Bệnh viện Bạch Mai để kiểm tra lại và bàng hoàng khi được chẩn đoán suy thận mạn. Năm 2022, khi thấy nước tiểu có nhiều bọt và lâu tan hơn bình thường, H đến bệnh viện khám và được hướng dẫn thực hiện điều trị bảo tồn với chế độ ăn kiêng, cộng với uống thuốc do bác sĩ kê đơn và định kỳ theo dõi hàng tháng.
Mới đây, thấy xuất hiện thêm các triệu chứng như buồn nôn, mất ngủ, thay đổi vị giác, H. đến Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu để khám thì được chẩn đoán suy thận giai đoạn cuối cần phải điều trị thay thế. “Chức năng thận giờ còn dưới 10%, tôi chọn phương pháp thận nhân tạo và đang chờ làm nối thông động tĩnh mạch tự thận (AVF - “cầu tay”) để lọc máu chu kỳ trước, sau đó mới tính tính ghép thận”, H nói.
Theo ThS.BS. Phạm Tiến Dũng, Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Trung tâm thường xuyên tiếp nhận nhiều trường hợp như hai bệnh nhân trên. Thậm chí bệnh nhân chỉ mới 15 -16 tuổi khi được chẩn đoán mắc bệnh thận mạn thì đã ở vào giai đoạn cuối.
“Đa số bệnh nhân đến với chúng tôi trong hoàn cảnh quá muộn, mọi thứ gần như khó có thể đảo ngược. Nếu phát hiện ở giai đoạn sớm, chúng ta có thể làm chậm tiến triển của bệnh thận” - theo BS Phạm Tiến Dũng.
Dấu hiệu nhận biết bệnh suy thận qua 5 giai đoạn
Bệnh suy thận là tình trạng chức năng thận bị suy giảm kéo dài, không thể phục hồi hoàn toàn. Việc nhận biết sớm các dấu hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị, ngăn ngừa bệnh tiến triển nặng hơn.
Theo tiến sĩ - bác sĩ Ngô Thị Kim Oanh, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM - cơ sở 3, suy thận tiến triển theo 5 giai đoạn, mỗi giai đoạn phản ánh mức độ suy giảm chức năng lọc máu - được đánh giá qua chỉ số độ lọc cầu thận (GFR).
Giai đoạn 1
Ở giai đoạn này, chỉ số GFR ≥ 90 ml/phút/1.73 m², thận có dấu hiệu bị tổn thương nhưng chức năng lọc vẫn trong giới hạn bình thường. Mặc dù chức năng lọc của thận vẫn trong giới hạn bình thường, nhưng có dấu hiệu tổn thương thận: đạm niệu vi thể (microalbumin niệu), bất thường trên hình ảnh (siêu âm thận), hoặc có bệnh lý nền như tăng huyết áp, tiểu đường... Các triệu chứng thường chưa rõ ràng, bệnh nhân có thể cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh.
Theo bác sĩ, người bệnh ở giai đoạn 1 cần kiểm soát tốt các bệnh nền (huyết áp, đường huyết); theo dõi chỉ số creatinine và nước tiểu định kỳ; duy trì lối sống lành mạnh: ăn nhạt, uống đủ nước và tránh thuốc gây hại cho thận (NSAIDs).

Phù chân là một trong những dấu hiệu cảnh báo bệnh suy thận
Giai đoạn 2
Chỉ số GFR từ 60-89 ml/phút/1.73 m², chức năng thận bắt đầu giảm nhẹ, nhưng vẫn còn đủ để thực hiện hầu hết các chức năng sinh lý.
Một số triệu chứng ban đầu là mệt mỏi nhẹ, đi tiểu đêm, cao huyết áp. Do đó, người bệnh cần chú ý điều chỉnh chế độ ăn (giảm đạm nếu có chỉ định); kiểm tra định kỳ 3-6 tháng/lần và tránh dùng các thuốc gây độc cho thận nếu không thực sự cần thiết.
Giai đoạn 3
Chỉ số GFR từ 30-59 ml/phút/1.73m². Giai đoạn 3 này lại được chia nhỏ thành 3a (GFR 45-59) và 3b (GFR 30-44).
Các triệu chứng bao gồm: Mệt mỏi kéo dài, thiếu máu nhẹ, da sạm, dễ chuột rút. Đáng chú ý, người bệnh có thể bắt đầu có biến chứng như tăng huyết áp, rối loạn điện giải, xương khớp.
Lúc này, bệnh nhân cần phối hợp điều trị với bác sĩ chuyên khoa để tăng cường kiểm soát huyết áp, đường máu; giảm lượng đạm trong khẩu phần ăn theo chỉ định dinh dưỡng và theo dõi kỹ nồng độ creatinine, ure, điện giải.
Giai đoạn 4
Chỉ số GFR từ 15-29 ml/phút/1.73 m². Khi này, chức năng thận đã giảm đáng kể, cần chuẩn bị cho phương pháp điều trị thay thế thận.
Người bệnh có biểu hiện thiếu máu nặng, ngứa, chán ăn, buồn nôn, phù, tăng huyết áp kháng trị, rối loạn canxi-phospho.

Ở giai đoạn cuối, bệnh nhân suy thận bắt buộc phải ghép thận để duy trì sự sống
Người bệnh cần được theo dõi sát sao để sẵn sàng chạy thận hoặc ghép thận khi cần. Một số hình thức điều trị thay thế có thể được các bác sĩ tư vấn là chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng hoặc ghép thận.
Giai đoạn 5 (suy thận giai đoạn cuối)
Chỉ số GFR <15 ml/phút/1.73 m², thận gần như mất hoàn toàn chức năng lọc máu; do đó, người bệnh phải điều trị thay thế để duy trì sự sống.
Khi bước vào giai đoạn này, người bệnh thường mệt mỏi nghiêm trọng, buồn nôn nặng, nôn, phù toàn thân, tiểu ít, chán ăn, ngứa, hôn mê do tăng ure huyết.
Bệnh nhân thận mạn giai đoạn cuối cần chạy thận nhân tạo 3 lần/tuần, hoặc lọc màng bụng liên tục tại nhà, nếu có đủ điều kiện thì phải ghép thận. Một số hỗ trợ tâm lý, dinh dưỡng và kiểm soát biến chứng đi kèm cũng được tiến hành kèm theo trong quá trình điều trị.
Lưu lượng máu được lọc qua thận trong một đơn vị thời gian (thường tính bằng phút) được gọi là độ lọc cầu thận. Độ lọc cầu thận (Glomerular Filtration Rate – GFR) là giá trị cho biết mức độ lọc chất thải ra khỏi máu của thận và là chỉ số tốt nhất giúp đánh giá chức năng hoạt động của thận. Ngoài ra trong lâm sàng dùng để đánh giá mức độ suy giảm chức năng thận và phân loại giai đoạn bệnh thận mạn.
Độ lọc cầu thận càng cao thì chứng tỏ khả năng làm việc, thải chất trong máu của thận càng tốt. Theo thời gian, độ tuổi càng cao thì độ lọc cầu thận cũng giảm và độ lọc cầu thận còn khác nhau tùy theo giới.